Mẹ m.ất khi hai cô mười tuổi, ba thì đau yếu triền miên, từ đó Nhã – chị, mạnh mẽ hơn, luôn là người bảo vệ và dẫn dắt Nhi. Nhưng cũng chính sự che chở ấy khiến Nhi dần s.ống thu mình – lặng lẽ, cam chịu, và luôn đứng sau chị.
Khi cả hai tròn hai mươi, trong một dịp lễ hội làng, họ gặp Khánh – một chàng trai từ tỉnh về quê l.àm việc. Khánh kh.ông giống những người đàn ông họ từng biết – lời nói nhẹ nhàng, ánh mắt biết cười, lại biết đàn hát. Cả hai chị em đều bị hút vào vòng xoáy của người đàn ông ấy, dẫu chẳng ai nói thành lời.
Khánh đến nhà thường xuyên với lý do “giúp ba sửa máy bơm nước”, nhưng người hiểu rõ nhất là Nhã. Ánh mắt anh hay dừng lại lâu hơn khi nhìn chị. Mỗi lần đi chợ, Khánh đều mang về cho Nhã món bánh chị thích, còn Nhi… thì đứng lặng nhìn từ xa, kh.ông oán trách, kh.ông đòi hỏi.
Một đêm, Nhi t.ình cờ bắt gặp Khánh h.ôn Nhã dưới gốc vú sữa sau nhà. Cô quay đi, kh.ông k.hóc. Nhưng từ đó, cô thay đổi. Ít nói hơn. Mắt hay nhìn xa xăm. Nhã cảm nhận được sự thay đổi ấy, và trong lòng dấy lên nỗi áy náy mơ hồ.
Vài tháng sau, khi ba bệnh nặng, Khánh cầu h.ôn. Nhưng trước khi cưới, một điều bất ngờ xảy ra: ba gọi hai chị em vào phòng, tr.ao cho mỗi người một mảnh khăn tay mẹ để lại và nói:
Chẳng ai hiểu hết ý ông, nhưng sau khi ông m.ất, lời trăn trối ấy trở thành sợi dây định mệnh kéo họ vào một quyết định gây s.ốc: Cả hai cùng lấy Khánh.
Lý do chính thức được nói ra là “vì thương ba, vì giữ gìn máu mủ trong nhà”. Nhưng sâu trong lòng mỗi người, là một mảnh t.ình riêng, một vết thương kh.ông lành.
Đ.ám c.ưới t.ổ ch.ức âm thầm. Họ chỉ mặc áo dài trắng đơn g.iản, kh.ông váy cưới, kh.ông rước dâu. Người làng xì xào, k.ẻ nói thương, người bảo “loạn luân”, nhưng rồi cũng qua.
Ba người s.ống chung dưới một mái nhà. Ban đầu, tất cả đều cố gắng giữ hoà khí. Nhã đảm đang việc nhà, đi chợ, quán xuyến, còn Nhi ở nhà chăm vườn, nấu cơm, lặng lẽ như cái bóng. Khánh… vẫn dịu dàng như xưa, nhưng bắt đầu biết chọn người nào để gần gũi hơn mỗi đêm.
Dù chưa từng nói ra, ai cũng biết: Nhã là người được yêu hơn.
Nhi kh.ông ghen, hay ít ra là kh.ông cho phép mình ghen. Nhưng mỗi lần đi ngang phòng ngủ, thấy ánh đèn phòng Nhã còn sáng, cô lại siết chặt tay, rồi lặng lẽ về phòng.
Một năm, rồi hai năm trôi qua như thế. Bề ngoài êm ấm, bên trong mục ruỗng.
Nhi bắt đầu có những cơn đau đầu dữ dội, bác sĩ bảo do stress. Nhã lo lắng đưa em đi khám khắp nơi, nhưng chẳng tìm ra bệnh rõ ràng. Trong lòng chị dấy lên cảm giác tội lỗi kh.ông tên – như thể chính mình đang dần giết ch:ết em g.ái bằng t.ình yêu ích kỷ.
Khánh vẫn quan tâm Nhi, vẫn nhẹ nhàng, vẫn nói chuyện, nhưng kh.ông c.hạm vào cô. Những cái ô.m chỉ còn là hình thức. Những cái nhìn kh.ông còn cháy bỏng. Đêm nào anh ở lại phòng Nhi, cô cũng nằm im, quay m.ặt vào tường, nước mắt thấm gối. Anh kh.ông dám c.hạm vào cô – vì ánh mắt cô như con dao, c.hạm vào sẽ đ.ứt tay, đ.ứt cả tim.
Nhi kh.ông trách, nhưng cô bắt đầu ghi nhật ký. Những trang giấy kín chữ, toàn là những điều kh.ông thể nói thành lời:
“Em vẫn nghe tiếng anh gọi tên chị trong mơ. Anh gọi dịu dàng, như cách chị từng gọi em khi còn nhỏ.”
“Em kh.ông s.ống nổi nữa… nhưng ch:ết thì nhát lắm.”
Nhã đọc được những dòng đó vào một buổi chiều mưa, khi Nhi ra đồng chưa về. Chị ngồi lặng hàng giờ bên quyển sổ. Đến khi tiếng sấm rền lên, chị mới chợt tỉnh và lao đi tìm em.
Nhưng lần này, Nhi kh.ông đi đâu xa. Cô chỉ ngồi sau nhà, dưới gốc vú sữa – nơi Khánh từng h.ôn Nhã. Cô nhìn cây thật lâu, rồi hỏi:
– Chị có từng thấy tội lỗi kh.ông?
Nhã nghẹn lời.
– Nếu một ngày em bi.ến m.ất, chị sẽ s.ống vui chứ?
Nhã quỳ xuống bên em, bật k.hóc như một đứa trẻ:
– Em đừng nói vậy… Đừng bỏ chị…
Nhi kh.ông trả lời. Cô chỉ mỉm cười nhẹ, như thể mình đã tha thứ, hoặc đã buông tay.
Từ hô.m đó, Nhi thay đổi. Cô chăm sóc Nhã như xưa, l.àm những món Nhã thích, nói nhiều hơn, cười nhiều hơn. Nhưng có điều gì đó kh.ông thật. Như thể cô đang diễn. Nhã lo sợ. Khánh thì kh.ông để ý, chỉ nghĩ “cuối cùng Nhi cũng chấp nhận được cuộc s.ống này”.
Một hô.m, Nhi nói:
– Em muốn có con.
Khánh ngập ngừng. Nhã im lặng. B.ầu kh.ông khí trong nhà nặng như đá đè ngực. Kh.ông ai p.hản đối, nhưng cũng chẳng ai nói “được”.
Đêm đó, Nhã lặng lẽ sang phòng Nhi, nắm tay em:
– Nếu… em muốn, chị sẽ ra đi.
Nhi nhìn chị, rồi mỉm cười thật buồn:
– Kh.ông. Em kh.ông muốn ai trong chúng ta rời đi. Nhưng… cũng kh.ông muốn ở lại nữa.
Hô.m đó trời mưa rất lớn. Gió rít từng cơn, như tiếng k.hóc của đất trời. Nhã đi chợ về, thấy nhà im ắng lạ thường. Gọi Nhi kh.ông ai trả lời. Gọi Khánh – cũng kh.ông.
Khi chị bước ra sau nhà, cảnh tượng trước mắt khiến chị đứng ch:ết lặng: Chiếc xe máy đổ nghiêng, cạnh đó là Khánh đang ô.m lấy Nhi – máu đỏ loang cả nền xi măng ướt sũng nước.
Khánh hét lên:
– Cô ấy ngã! Xe trượt… chị gọi xe cấp cứu mau!
Nhưng Nhi kh.ông tỉnh lại. Mắt cô mở to, miệng mấp máy điều gì đó. Nhã nhào tới, ô.m lấy em. Trong tay cô, Nhi cố thốt một câu:
– Xin lỗi… chị…
Rồi hơi thở tắt lịm.
Nhi m.ất. Cái ch:ết được ghi là “t.ai n.ạn do trời mưa, đường trơn”. Nhưng Nhã thì biết: Nhi chọn ngày mưa. Cô đã chọn cách kết thúc cuộc s.ống – như một lời trốn chạy khỏi t.ình yêu kh.ông lối thoát.
Khánh suy sụp. Anh k.hóc mỗi đêm. Nhưng điều khiến Nhã đau hơn cả kh.ông phải là m.ất em, mà là đọc được lá thư Nhi để lại giấu trong áo:
“Chị Nhã, em chưa từng ghét chị. Em chỉ đau vì biết mình kh.ông bao giờ là người được chọn. Em đã cố s.ống chung, cố yêu anh bằng một nửa của chị, nhưng kh.ông đủ. Em mệt rồi. Em tha thứ. Và xin chị đừng tự trách… Chỉ cần s.ống hạnh phúc – thay phần em…”
Nhã ô.m lá thư, k.hóc cạn nước mắt. Khánh, sau tang lễ, lặng lẽ rời đi. Kh.ông từ biệt. Kh.ông lời hứa. Kh.ông quay đầu.
Mỗi sáng thức dậy, Nhã đều nhìn về phòng bên cạnh – căn phòng Nhi từng s.ống, giờ là căn phòng hoang hoải với cửa sổ luôn hé mở. Kh.ông ai ở đó, nhưng Nhã vẫn pha thêm một ly trà, đặt lên bàn như thói quen. Dường như, chị vẫn hy vọng em sẽ bất ngờ bước ra, trách yêu: “Trà nguội rồi, ai uống nổi.”
Nhưng căn nhà vắng tiếng cười, thiếu bóng người. Cây vú sữa sau nhà trĩu quả như những giọt nước mắt đông cứng. Mỗi lần gió thổi, lá r.ơi lả tả – như thời gian đang phai m.àu ký ức.
Khánh bi.ến m.ất sau lễ tang. Kh.ông tin nhắn, kh.ông cuộc gọi. Người làng đồn rằng anh bỏ xứ đi, có người bảo thấy anh cạo đầu ở một ngôi chùa tận miền Bắc.
Nhã kh.ông đi tìm.
Chị kh.ông oán anh, kh.ông giận em. Chị chỉ tự trách mình. Nếu ngày đó chị kh.ông nhận lời, nếu ngày đó chị biết từ chối, nếu… nếu… nếu… Nhưng “nếu” kh.ông thể hồi s.inh một con người.
Chị bắt đầu viết thư cho Nhi – kh.ông phải gửi đi, mà để s.ống tiếp. Mỗi đêm, chị ngồi trước cửa sổ, thắp một cây nến nhỏ và viết.
“Em à, hô.m nay chị trồng lại luống hoa hồng sau vườn. Chị nhớ em từng bảo: ‘hoa hồng đẹp nhưng gai đâm đau’. Nhưng nếu kh.ông có gai, l.àm sao biết quý cái đẹp?”
“Hô.m nay mưa. Mưa giống ngày em đi. Chị đã kh.ông k.hóc. Kh.ông phải vì cạn nước mắt, mà vì tim đã vỡ rồi.”
“Có khi chị mong được gặp em một lần nữa – chỉ để nói lời xin lỗi bằng cả trái tim.”
Một buổi chiều mùa đông, khi những cây gạo trơ trụi lá, Khánh trở về. Anh gầy sọp, đầu trọc, mặc áo nâu sòng, tay cầm tràng hạt. Anh kh.ông vào nhà mà đứng lặng dưới gốc vú sữa, nơi mọi chuyện bắt đầu… và kết thúc.
Nhã thấy anh, đứng sau cánh cửa, kh.ông biết nên ra hay kh.ông. Rồi chị cũng bước ra.
– Em xin lỗi.
Giọng Khánh khàn đặc, như chưa từng được dùng để nói suốt nhiều tháng.
Nhã im lặng. Anh tiếp:
– Anh đã sai. Anh ích kỷ. Anh tưởng có thể yêu hai người… Nhưng hoá ra, chỉ l.àm đau cả ba.
Chị gật đầu, kh.ông trách. Chỉ nói một câu:
– Em ấy… tha thứ rồi.
Khánh òa k.hóc. Lần đầu tiên, kể từ ngày ch.ôn Nhi, họ k.hóc cùng nhau – kh.ông còn là chồng và vợ, kh.ông còn là k.ẻ có lỗi hay người bị bỏ lại – chỉ là hai con người cùng m.ất một người thân yêu.
Sau đó, Khánh rời đi. Lần này, chị biết anh sẽ kh.ông quay lại nữa. Nhưng cũng kh.ông cần. Quá khứ đã đủ nặng nề, hiện tại chỉ cần bình yên.
Nhã bắt đầu một cuộc s.ống mới. Chị kh.ông đi đâu xa, kh.ông bỏ quê, kh.ông rời khỏi ngôi nhà cũ kỹ. Nhưng chị l.àm điều chưa từng dám l.àm: mở một quỹ hỗ trợ phụ nữ tên là “Song Tử”.
Mỗi năm, chị dùng phần t.iền tích cóp từ việc trồng rau, bán hàng nhỏ, quyên góp để giúp những người phụ nữ bị ràng buộc trong h.ôn nhân áp đặt, bị trói buộc bởi truyền thống hay những cuộc h.ôn nhân “miệng đời”.
Nhiều người đến với chị – có cô g.ái trẻ định trầm mình vì yêu người đã có vợ, có người mẹ bị chồng ép s.ống cùng chị em chồng như chị em r.uột… Chị lắng nghe, kh.ông phán xét. Mỗi lần nghe xong, chị đều kể một đoạn chuyện về mình và Nhi – như một bài học kh.ông lên giọng.
Chị giữ căn phòng của Nhi nguyên vẹn. Mỗi năm vào ngày m.ất của em, chị đặt lên bàn thờ một tách trà, một bông hoa, một b.ức thư mới.
“Em à, hô.m nay có một cô b.é đến đây, định bỏ t.hai vì kh.ông được gia đình chấp nhận. Chị kể chuyện của tụi mình, cô ấy k.hóc như em ngày xưa. Rồi cô ấy giữ lại đứa b.é. Em có thấy kh.ông? Em vẫn s.ống, trong lòng nhiều người.”
Năm thứ ba sau ngày Nhi m.ất, cây vú sữa sau nhà ra hoa trắng muốt. Có một bông r.ơi xuống vai Nhã khi chị đang tưới nước. Chị ngẩng lên, cười.
Lần đầu tiên sau bao năm, chị kh.ông k.hóc.
Chị kh.ông còn s.ống trong tội lỗi. Mà s.ống vì yêu thương. Vì lời hứa chị từng thốt ra khi còn b.é:
“Dù chuyện gì xảy ra, chị cũng sẽ kh.ông bỏ em.”
Nhã kh.ông bỏ Nhi. Chị mang em đi theo – kh.ông phải là cái bóng đau buồn, mà là ký ức đẹp. Là tấm gương để s.ống tử tế. Là t.ình yêu chưa trọn nhưng kh.ông vô nghĩa.
Truyện kết bằng một đoạn nhật ký cuối cùng:
“Em à, chị s.ống ổn. Vẫn hay mơ thấy em. Có lần em cười, bảo: ‘Chị còn nợ em một chuyến đi xa.’ Chị đang để dành t.iền. Khi đủ, chị sẽ đi. Kh.ông phải để trốn, mà để s.ống thay phần em chưa kịp.”